Tin mới nhất
Danh sách bài viết theo chuyên mục
Kiểm định chất lượng Giáo dục nghề nghiệp - Thực trạng và một số khuyến nghị hàm ý chính sách Bài viết trình bày tổng quan về các kết quả đã đạt được trong công tác kiểm định chất lượng GDNN tại Việt Nam trong 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ khi kiểm định chất lượng dạy nghề lần đầu tiên được quy định trong Luật Dạy nghề 2006 và Giai đoạn 2 từ khi Luật GDNN có hiệu lực (ngày 1.7.2015) đến nay. Bài viết cũng nêu ra những hạn chế, tồn tại trong công tác kiểm định chất lượng GDNN tại Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân dân đến các hạn chế, tồn tại, bài viết đề xuất một số khuyến nghị hàm ý chính sách phát triển hệ thống kiểm định chất lượng GDNN trong giai đoạn sắp tới. Chất lượng đào tạo luôn là mối quan tâm hàng đầu của các cơ sở GDNN. Theo đó, công tác kiểm định chất lượng GDNN được xác định là một những cộng cụ quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo và nâng cao chất lượng của hệ thống GDNN. Ngày 06/6/2014, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 37- CT/TW, trong đó, nêu rõ "Chú trọng kiểm định chất lượng đào tạo, tăng cường quản lý chương trình, nội dung và chất lượng GDNN, nhất là đào tạo nhân lực có tay nghề cao" [1]. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành trong lĩnh vực đảm bảo chất lượng hay kiểm định chất lượng ở Việt Nam chưa đưa ra định nghĩa về "đảm bảo chất lượng". Theo Mạng lưới quốc tế Các cơ quan đảm bảo chất lượng giáo dục đại học (INQAAHE) thì "đảm bảo chất lượng" là tổng thể các chính sách, quy trình, thủ tục hệ thống và các biện pháp thực hiện trong nội bộ và từ bên ngoài của tổ chức giáo dục nhằm đạt được, duy trì, và nâng cao chất lượng và các tiêu chuẩn" [10]. Định nghĩa này nhấn mạnh các quy trình, biện pháp thực hiện cả trong nội bộ tổ chức và từ bên ngoài tổ chức để duy trì và nâng cao chất lượng. Trên nền tảng định nghĩa này, "đảm bảo chất lượng bên trong" (Interal Quality Assurance) được định nghĩa là các hoạt động đảm bảo chất lượng do cơ sở giáo dục thực hiện và "Đảm bảo chất lượng bên ngoài" (External Quality Assurance) được thực hiện bởi cơ quan, tổ chức bên ngoài cơ sở giáo dục. Có thể thấy, trong những năm qua, GDNN của Việt Nam đã tiếp cận được định nghĩa về đảm bảo chất lượng theo quan điểm của INQAAHE nêu trên. "Kiểm định chất lượng" (accreditation) trong bài viết này được định nghĩa là một hình thức, công cụ đảm bảo chất lượng bên ngoài cơ sở GDNN, được quy định bởi cơ quan quản lý nhà nước về GDNN. Công cụ này nhằm đánh giá, công nhận chất lượng cơ sở GDNN hay chương trình GDNN sau khi đăng ký hoạt động GDNN và chỉ thực hiện đánh giá, công nhận chất lượng đối với cơ sở GDNN hoặc chương trình đào tạo sau khi cơ sở GDNN đã có ít nhất một khóa sinh viên tốt nghiệp. Đảm bảo chất lượng bên ngoài trong GDNN Việt Nam còn có các công cụ/quy trình khác bao gồm đăng ký hoạt động GDNN, thanh tra, kiểm tra, đánh giá, công nhận trường chất lượng cao... Tuy nhiên các công cụ nêu trên không thuộc phạm vi đánh giá của bài viết này. I. Thực trạng công tác kiểm định chất lượng giáo dục NGHỀ NGHIỆP TẠI việt nam từ 2006 ĐẾN NAY
Các hoạt động nghiên cứu về kiểm định chất lượng GDNN tại Việt Nam bắt đầu được thực hiện trong khuôn khổ Dự án ODA Giáo dục Kỹ thuật và Dạy nghề do Tổng cục GDNN triển khai thực hiện (Dự án VTEP/1999-2009). Từ kết quả của dự án, kiểm định chất lượng dạy nghề lần đầu tiên được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật là Luật Dạy nghề năm 2006 (tại Chương VIII, từ Điều 73 đến Điều 78). Đây là một cột mốc quan trọng đánh dấu sự hình thành hệ thống kiểm định chất lượng GDNN tại Việt Nam. Các kết quả chính đã đạt được trong giai đoạn này gồm:
Có thể nói, quy định về kiểm định chất lượng GDNN trong Luật GDNN đánh dấu những thay đổi mang tính bước ngoặt trong hệ thống kiểm định chất lượng GDNN Việt Nam. Những điểm mới cơ bản trong quy định về kiểm định chất lượng GDNN quy định trong Luật GDNN (Chương VI) so với Luật Dạy nghề \gồm: (1) Đối tượng của kiểm định chất lượng GDNN gồm cơ sở GDNN và chương trình GDNN (Luật Dạy nghề chỉ quy định về kiểm định cơ sở GDNN) (2) Kiểm định chất lượng GDNN là bắt buộc đối với cơ sở GDNN và chương trình đào tạo các ngành, chuyên ngành hoặc nghề trọng điểm quốc gia, khu vực, quốc tế; cơ sở GDNN và chương trình đào tạo các ngành, nghề phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước (Luật Dạy nghề chưa quy định tính bắt buộc của công tác kiểm định) (3) Tổ chức kiểm định (do Nhà nước thành lập hoặc do tổ chức, cá nhân thành lập) thực hiện đánh giá, công nhận kiểm định chất lượng GDNN (4) Cơ sở GDNN nộp phí kiểm định cho tổ chức kiểm định chất lượng GDNN và được quyền lựa chọn tổ chức kiểm định chất lượng GDNN (Luật Dạy nghề quy định: Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở trung ương có thẩm quyền cấp và thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng dạy nghề). Các kết quả đạt được từ khi Luật GDNN có hiệu lực (ngày 1.7.2015) đến nay như sau:
Trước khi Thông tư được ban hành, hệ thống đảm bảo chất lượng của phần lớn các cơ sở GDNN không đảm bảo tính toàn diện, hệ thống và chưa áp dụng các công nghệ quản lý hiện đại. Một số ít các cơ sở GDNN áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9001 - 2008 nhưng hệ thống này không phù hợp để áp dụng cả tất cả các hoạt động của cơ sở đào tạo nên chưa đạt được kết quả mong muốn. Từ năm 2017, công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm triển khai Thông tư 28 được tăng cường. Đến nay, đã ban hành chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức cơ bản về đảm bảo chất lượng trong cơ sở GDNN; hình thành đội ngũ 20 giảng viên hạt nhân cho các lớp bồi dưỡng về đảm bảo chất lượng trong cơ sở GDNN, đã tổ chức được 30 lớp cho 1.189 cán bộ, giảng viên của 307 trường cao đẳng, trung cấp. Hiện tại có hơn 30 trường đã được nhận chuyển giao các công cụ quản lý hiện đại của nước ngoài để lồng ghép trong hệ thống đảm bảo chất lượng của trường (gồm 20 trường cao đẳng thuộc Chương trình "lồng ghép các công cụ quản lý chất lượng" thực hiện từ 2015-2018 với mô hình hợp tác phối hợp với hội đồng Anh Việt Nam và 20 trường trong chương trình hợp tác với Tổ chức Hợp tác phát triển CHLB Đức (GIZ) thực hiện từ 2016-2018). Các trường đều được các chuyên gia nước ngoài trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng và chuyển giao các công cụ đảm bảo chất lượng. Một số trường có cán bộ được tham gia các đoàn học tập, nghiên cứu tại Vương quốc Anh và CHLB Đức về đảm bảo chất lượng bên trong nhà trường. Tổng cục GDNN đã đẩy mạnh hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương, cơ sở GDNN trong việc triển khai xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong cơ sở GDNN. Phần lớn các trường cao đẳng, trung cấp đã thành lập Phòng hoặc phân công bộ phận chuyên trách về công tác đảm bảo chất lượng. 3. Kết quả thí điểm kiểm định chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế Thực hiện một số chương trình, đề án, dự án hợp tác quốc tế, công tác kiểm định chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế cũng đã có nhiều kết quả tốt:
Ngoài thu được kết quả đánh giá về mức độ các trường đạt được hiện nay so với chuẩn quốc tế để xác định chiến lược, giải pháp về phát triển các cơ sở GDNN và chương trình đào tạo GDNN đạt chuẩn quốc tế, hoạt động thí điểm kiểm định theo tiêu chuẩn quốc tế còn mang lại nhiều bài học kinh nghiệm về xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong nhà trường, hệ thống tiêu chí và quy trình đánh giá chất lượng của quốc tế. Bên cạnh đó, cán bộ của Tổng cục GDNN và kiểm định viên trong nước tham gia vào dự án cũng được tăng cường năng lực, học hỏi kinh nghiệm của quốc tế về đánh giá, công nhận chất lượng GDNN.
nhận về một số nội dung chưa phù hợp, thậm chí còn mâu thuẫn trong quy định về kiểm định lượng GDNN trong Luật GDNN và các văn bản hướng dẫn, cụ thể: + Theo quy định của Luật GDNN: kiểm định là bắt buộc đối với cơ sở GDNN và chương trình đào tạo các ngành, chuyên ngành hoặc nghề trọng điểm quốc gia, khu vực, quốc tế, cơ sở GDNN và chương trình đào tạo các ngành, nghề phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước. Điều này khẳng định kiểm định nhằm phục vụ yêu cầu quản lý, kiểm soát chất lượng GDNN của Nhà nước. Về nguyên lý, hoạt động phục vụ yêu cầu quản lý, kiểm soát chất lượng GDNN của Nhà nước không thể là hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận. Tuy nhiên, Luật GDNN lại quy định tổ chức kiểm định (do Nhà nước thành lập hoặc do tổ chức, cá nhân thành lập) thực hiện đánh giá, công nhận kiểm định chất lượng GDNN và Luật Đầu tư quy định hoạt động kiểm định chất lượng GDNN là hoạt động kinh doanh có điều kiện (Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Phụ lục 4 Luật Đầu tư 2016). Các quy định này đồng nghĩa với việc xác nhận hoạt động kiểm định có thể là hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận (dù phải đáp ứng thêm một số điều kiện ràng buộc so với lĩnh vực khác). Rõ ràng khi Chính phủ không cho phép thành lập bộ máy/tổ chức mới thực hiện việc kiểm định chất lượng thì căn cứ Nghị định về kiểm định chất lượng GDNN, việc triển khai kiểm định hoàn toàn phụ thuộc vào tổ chức trong nước (các đơn vị sự nghiệp hay doanh nghiệp) hay tổ chức nước ngoài có quan tâm đề nghị cấp giấy chứng nhận hoạt động kiểm định hay không. Điều này có nghĩa, hoạt động phục vụ yêu cầu quản lý, kiểm soát GDNN của nhà nước lại phụ thuộc vào sự "sẵn sàng" của các tổ chức khác. + Luật GDNN có quy định "tổ chức kiểm định do Nhà nước thành lập hoặc do tổ chức, cá nhân thành lập nhưng do Luật Đầu tư quy định hoạt động kiểm định chất lượng GDNN là hoạt động kinh doanh có điều kiện nên Nghị định về kiểm định chất lượng GDNN không quy định về thành lập tổ chức kiểm định như theo quy định của Luật GDNN mà quy định điều kiện cấp giấy chứng nhận hoạt động kiểm định đối với tổ chức ở trong nước (gồm 2 loại hình là đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp) và với tổ chức nước ngoài. Thực hiện quy định này sẽ có thể xảy ra trường hợp một đơn vị sự nghiệp là một trung tâm GDNN hay trường trung cấp nghề nếu đáp ứng các điều kiện để được cấp giấy chứng nhận hoạt động kiểm định (điều kiện về trụ sở, số lượng kiểm định viên, trang thông tin điện tử có cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động kiểm định...) sẽ có thể kiểm định một trường cao đẳng và giấy công nhận chất lượng một trường cao đẳng có thể do một tổ chức kiểm định là một trung tâm GDNN hay một trường trung cấp. Điều này rất đáng phải suy ngẫm. + Liên quan đến quy định kiểm định là bắt buộc đối với cơ sở GDNN và chương trình đào tạo các ngành, chuyên ngành hoặc nghề trọng điểm quốc gia, khu vực, quốc tế cơ sở GDNN và chương trình đào tạo các ngành, nghề phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước và nhiệm vụ của cơ sở GDNN là thực hiện kiểm định chất lượng GDNN theo yêu cầu của cơ quan QLNN có thẩm quyền, từ góc nhìn của nhà đầu tư là tổ chức kiểm định không phải của Nhà nước theo Luật GDNN, nhà đầu tư sẽ không xác định rõ được "khách hàng" của mình do "khách hàng" của họ được xác định theo yêu cầu quản lý, kiểm soát chất lượng của nhà nước và phụ thuộc vào sự "sẵn sàng" tham gia kiểm định của cơ sở GDNN đặc biệt quy định hiện hành cũng chưa rõ chế tài đối với cơ sở GDNN hay chương trình đào tạo thuộc đối tượng bắt buộc thực hiện kiểm định nhưng không thực hiện, cơ sở GDNN có thể sẽ "thờ ơ" với kiểm định để tránh việc bị đánh giá, kiểm soát chất lượng hoặc tránh mất khoản chi phí cho tổ chức kiểm định. + Các quy định hiện hành cũng chưa rõ mối liên hệ giữa kiểm định chất lượng GDNN và các hình thức, công cụ đảm bảo chất lượng bên ngoài khác như đăng ký hoạt động GDNN, thanh tra, đánh giá trường chất lượng cao...như thế nào để tránh việc chồng chéo dẫn đến lãng phí, ngoài ra chưa có cơ chế đánh giá, ‘theo dõi" đặc biệt với các cơ sở GDNN hoạt động kém hiệu quả. Câu hỏi nếu cơ sở GDNN đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng thì ưu đãi gì và nếu cơ sở GDNN không đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng hiện thì chịu chế tài gì dường như cũng chưa có câu trả lời cụ thể. Bên cạnh đó, kết quả kiểm định chất lượng GDNN theo văn bản hướng dẫn Luật GDNN hiện nay chia làm 2 mức là đạt tiêu chuẩn và không đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng - Kết quả này không đảm bảo phân tầng được chất lượng các cơ sở GDNN và chương trình đào tạo GDNN để công bố cho xã hội, phục vụ việc lựa chọn cơ sở GDNN của người học cũng như để doanh nghiệp tuyển dụng lao động như mục tiêu đề ra. Các vấn đề nêu trên rất có thể là một trong những nguyên chính dẫn đến thực trạng hiện nay là rất ít nhà đầu tư mong muốn trở thành tổ chức kiểm định và đến nay chưa thành lập được tổ chức kiểm định nào, theo đó, chưa tiến hành kiểm định được cơ sở GDNN nào theo Luật GDNN. Nghiên cứu về hệ thống đảm bảo chất lượng một số quốc gia có hệ thống GDNN phát triển hàng đầu như Vương quốc Anh, Úc, New Zealand và CHLB Đức (chỉ đối với GDNN triển khai tại cơ sở đào tạo do chính quyền bang quản lý, không tính với đào tạo do doanh nghiệp thực hiện trong hệ thống đào tạo kép của CHLB Đức) cho thấy cơ quan nhà nước vẫn đảm nhiệm đánh giá, kiểm soát chất lượng cơ sở đào tạo và công bố cho xã hội biết kết quả đánh giá, nhiệm vụ này không giao cho tư nhân thực hiện. Về phí kiểm định, ở Úc hay New Zealand, các cơ sở đào tạo phải trả phí toàn bộ hoặc một phần.. .theo mức phí được Nhà nước ấn định, công khai. Ở Anh và CHLB Đức (đối với GDNN triển khai tại cơ sở đào tạo do chính quyền bang quản lý), Chính phủ tài trợ toàn bộ chi phí hoạt động của các cơ quan đánh giá chất lượng và chi trả chi phí đánh giá ngoài cho đoàn đánh giá. Quy trình, thủ tục đảm bảo chất lượng bên ngoài GDNN ở 4 quốc gia nêu trên đều được thiết kế đảm bảo tính hệ thống và có sự liên kết chặt chẽ. Mỗi quy trình đảm bảo chất lượng bên ngoài đều có mục tiêu rõ ràng, có mối liên hệ với nhau và sử dụng kết quả đánh giá của nhau. Chế tài đối với cơ sở đào tạo khi kết quả đánh giá là chưa đảm bảo chất lượng được quy định rất rõ, đảm bảo sự giám sát, quản lý chất lượng của nhà nước với cơ sở này. Riêng hệ thống của Anh còn quy định rõ các biện pháp hỗ trợ, hay can thiệp sớm để đảm bảo chất lượng đào tạo, và quyền lợi của học sinh với cơ sở đào tạo có kết quả đánh giá chất lượng chưa tốt. Kết quả đánh giá chất lượng cơ sở GDNN của Anh chia theo 4 cấp độ là xuất sắc, tốt, đảm bảo chất lượng, và chưa đảm bảo chất lượng. Cơ sở nào đạt kết quả tốt hoặc xuất sắc thì kết quả tạo danh tiếng cho cơ sở, cơ sở có ‘nhãn về chất lượng thuận lợi cho quá trình tuyển sinh, marketing. Cơ sở nào có kết quả đánh giá là "cần cải thiện" hay "không đảm bảo chất lượng" thì sẽ bị kiểm soát nghiêm ngặt. Như vậy một quy trình/thủ tục đánh giá có thể đảm bảo cả mục tiêu kiểm soát chất lượng (mục tiêu chính) và khuyến khích, nâng cao chất lượng. Tương tự, kết quả kiểm định của New Zealand chia làm 4 cấp độ là "Hoàn toàn tin cậy", "Tin cậy", "Chưa tin cậy" hoặc "Không tin cậy". Nếu cơ sở đào tạo có kết quả đánh giá là "Hoàn toàn tin cậy" hoặc "Tin cậy" thì Cơ quan Đảm bảo chất lượng của New Zealand (NZQA) sẽ kết luận việc đánh giá tiếp theo sẽ theo chính sách quy định của NZQA và sẽ diễn ra trong vòng 4 năm kể từ ngày ký báo cáo. Trong trường hợp cơ sở đào tạo có kết quả đánh giá là "Chưa tin cậy" hoặc "Không tin cậy" thì NZQA thống nhất với cơ sở đào tạo về các hành động cụ thể để đạt ít nhất là cấp độ "tin cậy" trong một giai đoạn cụ thể. NZQA sẽ theo dõi quá trình cải thiện của cơ sở đào tạo và sẽ tổ chức đánh giá ngoài ở một thời điểm thích hợp. Điều này cũng tương tự như hệ thống của Úc hay của Anh, các cơ sở đào tạo ‘rủi ro' về đảm bảo chất lượng hơn sẽ bị theo dõi sát sao hơn các cơ sở khác.
quản lý nhà nước còn chưa rõ, đồng thời chưa có cái nhìn tổng thể, hệ thống về các biện pháp đảm bảo chất lượng bên ngoài từ đó xác định rõ mục tiêu của từng biện pháp, thủ tục đảm bảo chất lượng bên ngoài cũng như sự "gắn kết" giữa các biện pháp, thủ tục đảm bảo chất lượng bên ngoài. Quan điểm hoạt động kiểm định chất lượng GDNN có thể là hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận cần phải được điều chỉnh.
Trên cơ sở phân tích các hạn chế, tồn tại và nguyên nhân trong công tác kiểm định chất lượng GDNN, bài viết đề xuất một số khuyến nghị như sau:
Mô hình tổ chức hệ thống kiểm định chất lượng GDNN được đề xuất như sau:
Có thể nói, so với hệ thống kiểm định chất lượng GDNN ở nhiều các quốc gia khác với lịch sử phát triển đến ba, bốn thập kỷ thì hệ thống kiểm định chất lượng GDNN Việt Nam mới đang trong giai đoạn đầu hình thành, phát triển. Chính vì vậy, bên cạnh nhiều kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, chúng ta cũng không tránh được những tồn tại, hạn chế. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là thực trạng cần được đánh giá đúng để xác định đúng "con đường phía trước". TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2018), Báo cáo đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN - Giải pháp đột phá đến năm 2020;
Saroyan, A. (2011). Quality assurance - Concepts and Practices. Prepared for the World Bank.
Tác giả bài viết: Đỗ Năng Khánh - Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp https://gdnn.edu.vn/ |
Các thông tin khác:
- HCEET và TVC HRD.,JSC ký thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu lao động
- Hội nghị viên chức HCEET năm 2021
- Thư cảm ơn dự Buổi gặp mặt nhân dịp Kỷ niệm 55 năm Ngày thành lập trường
- Thư mời gặp mặt nhân kỷ niệm 55 năm Ngày thành lập trường
- HCEET đồng hành cùng Casper Việt Nam tổ chức Hội thi tay nghề Kỹ thuật viên
- Ký túc xá trường Cao đẳng Điện tử - Điện lạnh Hà Nội, ngôi nhà thứ hai của HSSV HCEET
- HCEET tổ chức dâng hương nhân kỷ niệm 73 năm Ngày Thương binh-Liệt sỹ (27/7/1947 - 27/7/2020)
- Lễ ký kết hợp tác giữa HCEET và Viện Công nghệ thông tin, Đại học Quốc gia Hà Nội
- Lễ bế giảng và trao bằng tốt nghiệp khóa 44 hệ Cao đẳng và khóa 45 hệ Trung cấp
- Hội nghị công bố và trao quyết định bổ nhiệm Hiệu trưởng trường Cao đẳng điện tử - điện lạnh Hà Nội
- Công tác đón HSSV quay trở lại trường sau thời gian nghỉ dịch Covid – 19
- Trường Cao đẳng Điện tử - Điện lạnh Hà Nội với công tác phòng chống dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng virus Corona (nCoV) gây ra
- Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh gặp mặt các nhà giáo Giáo dục nghề nghiệp tiêu biểu năm 2019.
- HCEET tham gia Diễn đàn "Nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam" năm 2019 và các sự kiện bên lề Diễn đàn
- Trường Cao đẳng Điện tử - Điện lạnh Hà Nội tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho cán bộ, viên chức, lao động năm 2019
- Đảng bộ trường Cao đẳng Điện tử - Điện lạnh Hà Nội tổ chức Hội nghị quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị, nội dung Hội nghị Trung ương 10 (khóa XII).